Hoại tử chỏm xương đùi vô khuẩn hay hoại tử vô mạch là căn bệnh nếu chỉ dựa trên các biểu hiện lâm sàng thì rất khó phát hiện và chẩn đoán chính xác bệnh. Đây là bệnh xương khớp có thể phải chỉ định phẫu thuật thay thế khớp nếu tình trạng tiến triển nặng.
Bệnh hoại tử chỏm xương đùi vô khuẩn
Hoại tử vô khuẩn chỏm xương đùi là bệnh có tổn thương hoại tử tế bào xương và tủy xương do thiếu máu nuôi trên chỏm xương đùi. Vùng hoại tử lúc đầu tạo ra các vùng thưa xương, các ổ khuyết xương, về sau dẫn đến gãy xương dưới sụn, cuối cùng gây xẹp chỏm xương đùi, thoái hóa thứ phát và mất chức năng của khớp háng, dẫn đến tàn phế.
Bệnh hoại tử chỏm xương đùi thường gặp ở nam giới hơn phụ nữ do thói quen sinh hoạt thường ngày không lành mạnh. Độ tuổi mắc bệnh có thể dao động trong khoảng 20-50 tuổi, trong đó nhiều nhất là từ 40 tuổi trở lên tuy nhiên hiện nay bệnh ngày càng trẻ hóa: những người 30 tuổi bị bệnh ngày gia tăng chóng mặt.
Nguyên nhân hoại tử chỏm xương đùi
Hoại tử chỏm xương đùi thường do các tai nạn chấn thương gây ra nhưng cũng có nhiều trường hợp không do chấn thương
Nguyên nhân chấn thương: do tai nạn, chơi thể thao hay tính chất công việc mà dẫn trật khớp hoặc gãy cổ xương đùi. Thông thường hoại tử xuất hiện sau chấn thương khoảng vài năm và không bị ảnh hưởng nhiều bởi tuổi tác và giới tính.
Nguyên nhân không do chấn thương:
+Do lạm dụng rượu bia và hút thuốc lá quá nhiều, đây là yếu tố chính làm tổn thương, viêm mạn tính và làm tắc các mao mạch (mạch máu nhỏ) nuôi chỏm xương đùi, dẫn đến các tế bào xương sụn vùng chỏm bị thiếu máu và hoại tử dần.
+Do rối loạn áp suất thường gặp ở những người thợ mỏ hay thợ lặn: hình thành khí trong máu không kịp đào thải qua phổi gây tắc mạch
+Do lạm dụng sử dụng thuốc Corticoid trong thời gian dài.
+Do một số bệnh lý khác gây ra như: Bệnh lý mạch máu, Đái tháo đường, bệnh lý tự miễn (viêm khớp dạng thấp, luput ban đỏ...).
Triệu chứng bệnh hoại tử chỏm xương đùi
Tình trạng bệnh diễn ra âm thầm, từ từ cho đến khi bệnh nhân bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu đầu tiên là cảm giác đau ở khớp háng bị tổn thương thì đồng nghĩa bệnh đã tiến triển đến giai đoạn trung bình trở lên. Một số trường hợp người bệnh không có triệu chứng đầu tiên đau tại khớp háng mà trong giai đoạn sớm, người bệnh có cảm giác đau khớp gối cùng bên khớp háng bị tổn thương, chính vì vậy, một số người bệnh dễ bị chẩn đoán là thoái hóa khớp gối hay bệnh lý tại khớp gối mà bị bỏ qua chẩn đoán hoại tử chỏm xương đùi giai đoạn sớm.
Hoại tử chỏm xương đùi có thể ở một hoặc hai bên khớp háng (khoảng 70% các trường hợp tổn thương xuất hiện một bên) :
+Giai đoạn sớm thường bệnh nhân không có triệu chứng gì đặc biệt, vận động khớp háng vẫn bình thường không bị hạn chế.
+Giai đoạn phát triển: triệu chứng chính là đau khớp háng, đau thường xuất hiện từ từ, tăng dần, đau tăng lên khi đi lại hoặc đứng lâu, giảm khi nghỉ ngơi. Biểu hiện hạn chế biên độ vận động khớp háng như bệnh nhân ngồi xổm khó khăn hoặc không ngồi được, bệnh nhân không xoay hoặc dạng, khép háng bình thường được.
Hình ảnh X-quang bệnh hoại tử chỏm xương đùi
Để chẩn đoán được bệnh hoại tử chỏm xương đùi ngoài các dấu hiệu lâm sàng ta cần phải dùng các phương pháp cận lâm sàng như X-quang, CT-scaner hay MRI:
+Chụp Xquang thường chỉ phát hiện được khi bệnh ở giai đoạn muộn. Các hình ảnh thường thấy là xẹp chỏm từ mức độ nhẹ đến nặng, nặng nhất chỏm bị tiêu một phần hoặc hoàn toàn, hẹp khe khớp. Ngoài ra có những biến đổi cấu trúc xương như mất chất khoáng khư trú, vỡ xương dưới sụn.
+Chụp CT-scaner: không thể phát hiện sớm những bất thường ở tủy và mạch máu của chỏm trong hoại tử vô khuẩn. dấu hiệu sớm nhất có thể phát hiện được trên phim CT là thưa xương. Các dấu hiệu khác gồm các nốt tăng tỷ trọng không đều hoặc những giải tăng tỷ trọng với bề dầy khác nhau; đường sang dưới sụn; vỡ xương dưới sụn và biến dạng chỏm.
+Chụp cộng hưởng từ (MRI): MRI là phương tiện chẩn đoán hình ảnh có khả năng phát hiện sớm nhất nhạy nhất HTVKCXĐ. Tổn thương trên MRI gồm hình ảnh vùng giảm tín hiệu ở chỏm xương đùi phía ngoài và tăng tín hiệu phía trong.